Người phụ nữ chấp nhận tai ương ấy đã ra đi

Thứ bảy, 21/08/2010 00:00

(Cadn.com.vn) - Chị Vũ Bội Trâm, vợ cố nhà thơ Phùng Quán đã qua đời lúc 8 giờ 35 ngày 15-8-2010 tại Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội. Lòng tôi trĩu nặng  tiếc thương chị và thương cháu Quyên, cháu Quân mồ côi cha mẹ. Mới hôm nào ra Đại hội Nhà văn IX, tôi đã cùng anh em nhà văn Huế như Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Đắc Xuân, Mai Văn Hoan, Vĩnh Nguyên... đến bệnh viện thăm chị. Chị nằm bất tỉnh, nhưng khi nghe tôi gọi dường như chị cảm nhận được.

Một giọt nước mắt của chị ứa ra trên khuôn mặt hoang dại... Tôi quen thân gia đình anh Phùng Quán - chị Bội Trâm từ đầu năm 1980, nên anh chị coi tôi như đứa em trong nhà, có chuyện gì cũng kể. Từ ngày anh Phùng Quán qua đời, bao nhiêu bài viết của anh Quán hay những bài các nhà văn, nhà báo viết về anh Phùng Quán, chị đều gửi vào Huế cho tôi cất giữ. Nhờ khối tư liệu đó, tôi và chị đã làm được mấy cuốn sách cơ bản về nhân cách và tài năng Phùng Quán như Nhớ Phùng Quán, Phùng Quán còn đây, Ba phút sự thật. Những cuốn sách được độc giả cả nước rất mến mộ.

Đối với tôi, chị Bội Trâm là một phụ nữ tuyệt vời, người phụ nữ đã bất chấp tai ương để tạo dựng hạnh phúc của riêng mình. 79 tuổi đời chị đầy đắng cay đau khổ, tất cả chỉ vì chị đã gắn bó đời mình với nhà thơ Phùng Quán - văn nhân nổi tiếng truân chuyên. Chị kể: “Anh chị bằng tuổi nhau, cùng sinh năm 1932. Năm 23 tuổi, chị gặp anh Quán. Anh ấy quen với em trai chị - nhạc sĩ Vũ Hướng. Hồi đó anh đóng quân ở Cửa Đông rồi sau chuyển về 4-Lý Nam Đế, hay qua lại nhà chị ở 3-Hàng Cân và được cha mẹ chị thương như con trong nhà. Các con chị sau này thường hỏi: “Mẹ yêu cha vì cha đẹp trai hay vì cha làm thơ hay?”.

Có lẽ chị yêu anh ấy vì yêu thơ. Thơ anh Quán hợp với cái tạng của chị: Yêu ai cứ bảo rằng yêu/ Ghét ai cứ bảo rằng ghét/ Dù ai cầm dao dọa giết/ Cũng không nói ghét thành yêu... Chị yêu anh lúc mà cuộc đời anh cơ cực đau khổ nhất. Có những lúc Phùng Quán không người thân, bạn bè xa lánh vì sợ liên lụy, không nhà cửa, không có nghề để sinh sống, không lương (chỉ được Hội Nhà văn trợ cấp mỗi tháng 25 đồng đủ để ăn cơm “đầu ghế”, bây giờ gọi là cơm bụi). Chị Bội Trâm lúc đó là cô gái Hà thành sinh ra trong gia đình gia giáo, lại là giáo viên dạy văn Trường Chu Văn An. Chị yêu Phùng Quán, gia đình không đồng ý.

Chị kể: “Chị đã nói với bố mẹ rằng: Con đã yêu anh Quán nên con không thể yêu người khác nữa. Nếu bố mẹ không cho con lấy, con xin vâng lời, nhưng con sẽ không lấy người đàn ông nào khác nữa”. Chị đã quyết đến với anh, chị muốn lấy tình yêu của mình để che chở cho trái tim đau khổ cô đơn “tứ cô vô thân” của anh. “Tiệc cưới” của chị và anh Phùng Quán là một bữa cơm tươi tại nhà mẹ nuôi Tưởng Dơi bên Hồ Tây với 4 người khách là bạn thân.

 Bà Vũ Bội Trâm bên tủ sách của chồng – nhà thơ Phùng Quán.

Cả đời chị chỉ có một người yêu duy nhất: Đó là Phùng Quán! Chị đã khảng khái trước mọi người: “Người mà tôi lấy làm chồng chỉ có thể là người tốt. Thời gian sẽ chứng minh điều đó!”. Và chị đã đúng. 30 năm sau, Phùng Quán đã được phục hồi Hội Nhà văn, được in sách, được viết và được Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Đó là hạnh phúc mà chị phải đổi bằng nước mắt và khổ đau.

Lấy nhau 20 năm, đã có hai đứa con là Phùng Đỗ Quyên (1963) và Phùng Quân (1965), mà mẹ con chị Bội Trâm vẫn ở nhà mẹ ở Hàng Cân, còn Phùng Quán thì trú nhà bà Tưởng Dơi. Những năm tháng ấy, Phùng Quán thường xuyên đi cải tạo lao động ở Thái Bình, Thanh Hóa, Việt Trì, rồi đi tăng gia một mình ở rừng núi Thái Nguyên suốt 3 năm liền... Tất cả sinh hoạt trong gia đình đều trông nhờ vào đồng lương giáo viên ít ỏi của chị Trâm. Những ngày ấy, bạn bè như nhà văn Tuân Nguyễn, Xuân Đài... đã san sẻ chút tiền lương ít ỏi để cho chị Trâm nuôi con. Bao nhiêu cơ cực dồn lên đôi vai của người phụ nữ gầy nhỏ này.

Năm 1981, Trường Chu Văn An thương tình mới cho vợ chồng Quán -Trâm một góc nhỏ phía sau trường vốn là nơi chứa đồ mộc thí nghiệm của trường. Dù khổ, vợ chồng cũng đã được sống bên nhau để cùng nuôi con. Phùng Quán đêm ngày “cá trộm, vui chui, rượu chịu”. Rồi nhờ anh bạn Phùng Xuân Bính ở Nhà Văn hóa Hà Nội giúp ít gỗ thải loại, Phùng Quán cặm cụi đục đẽo làm được cái “chòi ngắm sóng” lợp lá gồi. Tôi đã nhiều lần từ Huế ra ngụ trên cái chòi ấy. Rồi gian nhà sau Trường Chu Văn An ấy bị giải tỏa, Chòi ngắm sóng không còn, chị Bội Trâm đã tậu được ngôi nhà đàng hoàng ở tầng hai phố Vĩnh Phú, thì anh Quán không còn nữa.

Khi Phùng Quán vừa có niềm vui được phục hồi Hội Nhà văn, được in sách với cái tên của mình, thì chị Bội Trâm bị căn bệnh hiểm nghèo: Ung thư vú. Đó là năm 1987, chị Trâm lúc đó vừa được mổ, được điều trị bằng tia phóng xạ, nhưng cái tay phải vẫn to phình lên. Đêm ngủ phải buộc cái dây để treo tay lên không lủng lẳng. Bệnh tật như thế nhưng chị vẫn hằng ngày cơm nước chăm chồng con.

Những ngày đó, buổi sáng nào thức dậy trên Chòi ngắm sóng, sau khi làm chén rượu “diệt sâu bọ”, Phùng Quán  đều đọc bài thơ “Kinh cầu nguyện buổi sáng” tặng vợ: Tôi sẽ đi với em/ Cho đến tận mút chót con đường/ Cho đến lúc tôi nằm dài dưới đáy huyệt!/ Có thể em chết trước tôi/ Cũng có thể tôi chết trước em/ Nhưng không sao cả em ơi/ Ngày lấy em tôi đã có lời nguyền/ Nếu tôi bỏ em lại bơ vơ dọc đường/ Tôi sẽ bị trời tru đất diệt!...”. Nhưng nhà thơ Phùng Quán đã ra đi trước vợ đến 15 năm. Anh mất năm 1995 vì bệnh xơ gan cổ trướng...

15 năm anh Phùng Quán xa cõi tạm, chị Vũ Bội Trâm đã lao động hết sức mình để tiếp tục giới thiệu với bạn đọc những tác phẩm của chồng. Chị dành những năm tháng còn lại của cuộc đời mình để sắp xếp, chăm chút những trang bản thảo của chồng. Đằng sau những trang di cảo là tấm lòng của người vợ muốn tìm và chia sẻ, cảm thông với tâm sự của chồng. Chị  đọc và chọn tuyển tập Thơ Phùng Quán cho Nhà Văn học 2003.

Chị cùng với tôi làm nhiều tập sách về Phùng Quán đã nói ở trên, chị còn cắm cúi đọc lại từng chồng di cảo của anh để lại và đã phát hiện ra tập bản thảo “Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào”, đưa đến bạn đọc một tập hồi ký chân thực và hấp dẫn. Hôm ra mắt  cuốn sách “Phùng Quán còn đây” và “Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào” ở Trung tâm Triển lãm văn hóa nghệ thuật Hoa Lư, tháng 10-2007, chị nói với mọi người: “Hơn 30 năm sống với chồng nhưng giờ đây, qua những tác phẩm tôi mới hiểu hết anh ấy!”.

Ngô Minh